Tiếp theo phần 2 - Phong tục - lễ nghi tang ma của người Chăm - Bà La Môn
Lễ Tak Yu (Lễ Chém Cây)
Lễ nghi này do 1 ông Pô sà và 1 ông Pa sế đảm nhiệm, lễ vật gồm 3 chai rượu, trầu cau, 2 cái ly và 1 cái hũ nước làm phép.
2 thầy Pa sế mỗi thầy cầm 1 cây chà gạt, 1 cây mộc trượng bước ra đứng ở giữa rạp đọc vài câu thần chú, rồi mỗi ông cầm 1 cây, đẽo tượng trưng 3 lần rồi giao cho thợ làm đòn khiêng.
Sau đó ông hăng (thợ làm nhà) cất 1 cái nhà mồ gọi là minh khí (dùng để khiêng người chết đem đi hỏa táng).
Mỗi góc nhà mồ có dán 4 con hăng (rồng Chăm được cách điệu) và cuối cùng 2 thầy đến ngã 3 đường đào 1 cái lỗ, họa hình người chết trong đó, đặt 3 đoạn tre rồi lấp lại.
Lễ Pla Plao (Lễ Tiễn Đưa Người Chết)
Lễ chém cây chấm dứt, bà con dân làng gạt bỏ tất cả mọi công việc làm ăn để tới giúp tang chủ. Gia đình tang chủ cũng chủ giết dê hoặc trâu để thết đãi bà con họ hàng.
Trong thời gian ấy, người ta làm 1 chiếc nhà táng bằng tre, lợp vải, có dán giấy cắt hình con hăng bay lên trời, ngụ ý khi thiêu thì những con hăng ấy sẽ đưa hồn người chết lên cõi thiên đường.
Đêm đến các thầy Pa sế phân công nhau làm các công việc phục vụ người chết. Thầy cả lo việc làm phép mặc đồ trang phục tăng lữ Bà La Môn, cổ quàng chiếc khăn đỏ, tay cầm gậy trúc có gắn thỏi sáp. Các thầy Pa sế mỗi người cầm 1 cái chà gạt (loại rựa dùng chặt cây).
Đêm khuya 1 ông thầy Pa sế đảm nhiệm việc đánh đàn cho gia chủ. Nhạc kanhi (đàn nhị) được nổi lên với giai điệu buồn bã như xót thương người quá cố. Đàn Kanhi được kéo cho đến 4-5h sáng thì chấm dứt để chuẩn bị cho ngày đưa người chết lên giàn hỏa táng.
Điểm đặc biệt trong tang ma của người Chăm Ninh Thuận là trong lễ tiễn đưa người mất tới giàn thiêu không thể thiếu cây đàn Kanhi.
Lễ Cuh (Lễ Hỏa Thiêu)
Các nhạc cụ được sử dụng trong lễ tiễn đưa người chết tới giàn thiêu, đối với nhà nghèo thường là 1 cây đàn Kanhi. Nhà giàu thường mang theo 2 cây đàn Kanhi, 1 cái kèn Sarinai, 1 bộ trống Ghi năng, 1 cái trống vỗ Paran nưng.
Dân làng hôm ấy cũng bỏ tất cả mọi công việc làm ăn để đến tham dự đám tang vừa giúp đỡ gia chủ mọi việc vặt, vừa lễ vong linh người đã khuất lần cuối.
Khi lễ, những người là thân nhân trong dòng họ người chết không phân biệt đàn ông hay đàn bà, họ đều dùng khăn đội đầu quấn ngang lưng, quỳ xuống trước linh cữu, chắp tay lên đầu rồi nhoài mình về phía trước. Hành động đó được lặp đi lặp lại 3 lần.
Sau đó mọi người ngồi lại ăn uống 1 bữa nữa với gia đình tang chủ. Mâm cơm được dọn ra ngay trước cửa nơi để quan tài. Ăn uống xong xuôi, mọi người ngồi lại để cùng tang gia đưa linh cữu lên giàn hỏa.
Trước khi hành lễ, các thầy Pa sế phải xuống sông hoặc đến giếng nước tắm sạch sẽ, chỉ có 1 thầy Pa sế ở nhà lo sắp xếp công việc hỏa thiêu.
Sau khi tắm xong, 4 ông thầy mang chà gạt đi ra chỗ đòn khiêng (khi ấy đã dán bùa chú) và cắm 4 ngọn nến tượng trưng cho 4 vị thần ở 2 vai và 2 đầu gối, và khiêng đòn vào để cạnh người chết.
Trong lúc thầy cả đọc thần chú, các thầy khác tụng niệm theo, đồng thời 4 thầy Pa sế sắp xếp cho lưỡi chà gạt chụm vào nhau và đặt vào giữa đòn khiềng, ngụ ý muốn diệt trừ cho hết hồn ma còn nằm ở đó.
Nhạc Kanhi Là Một Phần Rất Quan Trọng Trong Nghi Thức Hỏa Thiêu
Thầy Pô sà dẫn thầy Pa sế đi vòng phía đông của rạp để điểm lại mọi vật phẩm lễ nghi, rồi vòng qua hướng Tây để vào rạp (cái nhà lợp bằng tranh).
Nhạc Kanhi nổi lên, mỗi thầy đều có 1 mâm cơm đem ra xếp trước rạp làm phép rồi lấy 1 ít cơm đem tống yểm bùa ở ngã 3 đường.
Trong lúc này, dân làng xóm vào, miệng hô những câu thần chú. Sau quan tài là những người thân thuộc, đến dân làng, họ mang theo cả gia tài của người quá cố.
Tục lệ Chăm quy định, người chết cũng được hưởng gia tài như người sống. Phần chia của họ phải đem thiêu cùng lúc với người chết.
Ra khỏi làng, tới 1 cái gò khá rộng, thầy cả đứng lại, ra lệnh cho những người khiêng đổi đầu quan tài.
ý nghĩa của việc này là làm cho hồn của người chết không nhận ra lối để trở về làng, để khỏi tìm ám những người mà hồn không ưa.
Giàn Hỏa Thiêu Là 1 Gò Đất Trống Gần Làng
Đến điểm hỏa táng ở 1 khu đất kế đó, thầy cả miệng hô thần chú, tay cầm mồi lửa cháy to, châm vào các mồi sáp đã được đặt sẵn từ trước, để ngọn lửa bùng lên. Khi đám cháy đã khá lớn, các thầy mới rút gậy ra.
Điểm đặc biệt trong lễ hỏa thiêu của người Chăm Bà La Môn là người ta sẽ lấy và lưu lại những miếng xương trán của người chết để chờ Ngày Nhập Kút.
Sau Lễ Hỏa Thiêu Là Đến Các Đám Tuần
Sau Lễ Hỏa Táng là đến đám Tuần 3 ngày, tuần 7 ngày, cho người quá cố. 2 tuần này đều được làm tại địa điểm hỏa táng.
Lễ vật làm tuần gồm: gà luộc, 5 nắm cơm, canh và 5 cái bánh, 1 mâm có đặt hộp Klong đựng xương trán người chết, dưới có 1 lớp gạo, trên phủ 1 bộ y phục.
Sau đám tuần 7 ngày, còn các đám tuần tháng, tuần năm. Nghi thức và lễ vật của tuần tháng, tuần năm cũng giống như đám tuần 3, 7 ngày nhưng đám tuần tháng, năm thì làm tại nhà người cố. Lễ tuần của người Chăm Bà La Môn giống như đám tuần của người Hồi Giáo Bà ni nhưng cách làm và lễ nghi khác nhau.
Lễ Nhập Kút
Kút giống như nghĩa địa, Kút là 1 tượng đá thường lấy ở sông hoặc biển, xưa kia được các nghệ nhân làm giống như "linh ga" biểu tượng của thần Civa.
Theo quan niệm của Bà La Môn Ấn Độ, khi người chết phải thiêu hủy xác, linh hồn sẽ được lên thiên đường, các xương cốt và tro đổ xuống ao hay sông suối.
Người Chăm theo đạo Bà La Môn Việt Nam những quan niệm giống như người Chăm Bà La Môn Ấn Độ, tuy nhiên có sự khác nhau về Kút.
Sau khi hỏa táng, thân nhân lưu lại các mảnh xương trán của người chết (nữ 9 mảnh, nam 7 mảnh) để đưa vào Kút. Đây là cách người ta tưởng nhớ người quá cố.
Nhưng không phải tất cả những người chết đều được nhập Kút. Muốn vào Kút người chết bắt buộc phải có 1 số điều kiện sau đây:
- Chết bình thường như chết già, chết bệnh có sự chứng kiến của thân nhân.
- Thể xác phải toàn vẹn không đui, què, tàn tật.
- Không phải chết do tai nạn, chết đuối, chết trận
- Không lai về dân tộc và tôn giáo
Xương cốt của người không hội đủ điều kiện trên thì phải lập Kút khác ở ngoài hàng rào của Kút dòng họ gồm những người chết trong sạch (hội đủ điều kiện đã quy định về lễ nhập Kút).
Thời Gian Lập Kút Của Người Chăm
Người Chăm thường lập Kút vào tháng 1,2,3 và tháng 6 dương lịch (tức Plàn tha, chòa, clâu và plàn năm) và làm vào các ngày thứ 3,4,7, chủ nhật. Họ thường tổ chức lễ nhập Kút vào buổi chiều, sáng ngày hôm sau đưa hộp Klong đến Kút (nghĩa địa)
Đầu tiên họ làm lễ mở Kút để xin phép Pô thì cho nhập Kút mới. Đọc văn khấn để xin nhập Kút.
Sau đó thân quyến gia đình đều khấn vái linh hồn người chết cầu mong họ phù hộ con cháu và che chở con cháu.
Lễ nhập Kút bắt đầu do thầy Pa sế đảm nhận.
Ông gom tất cả các hộp Klong lịa, rồi lấy xương trán trong từng hộp Klong ra, xếp theo thứ tự nam riêng, nữ riêng và người có chức sắc Pa sế riêng, sau đó cho vào 1 cái hộp bằng vỏ cây
(clàm) lấy ở biển.
Tiếp đến thầy Pa sế dùng cuốc đào sâu xuống phía dưới tượng Kút khoảng 48-50cm, đặt hộp đựng xương xuống theo thứ tự như đã quy định, lặp lại và cuối cùng làm lễ kết thúc.
Nghi Thức Tang Ma Của Người Chăm - Bà La Môn Có 1 Vài Điểm Đáng Lưu Ý Sau:
- Khi 1 người dân thường chết, tang lễ được cử hành ngay ngày hôm sau; nếu là dòng dõi quý tộc hay quan lại đại thần thì 3 ngày sau, nếu là vua thì 7 ngày sau mới làm lễ tang.
- 7 ngày sau người ta đem hương trầm đến khóc ở quanh đống tro củi của giàn thiêu, và cứ như thế làm 7 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 7 ngày. Đến trăm ngày và đến năm thứ 3 người ta lại cúng người chết.
Những quả phụ không bao giờ tái giá và để cho tóc mọc dài đến khi già.
- Ngày nay nghi lễ hỏa táng của người Chăm Bà La Môn không còn làm giống như ngày xưa nữa. Họ thiêu người chết, lấy 9 xương trán bỏ vào Klong, tro thiêu thi hài đem bỏ xuống ao, gom hộp Klong của nhiều người lại để làm lễ nhập Kút.
Người Chăm Bà La Môn coi lễ hỏa táng là cách thực hiện nghĩa vụ của người sống đối với người chết. Người Chăm quan niệm, qua lễ hỏa táng người sống sẽ bày tỏ được lòng kính trọng của mình với người quá cố.
- Tục hỏa táng của người Chăm Bà La Môn mang nét đặc trưng riêng: họ coi ngọn lửa là công cụ đưa linh hồn con người chuyển sang 1 kiếp khác. Vì thế, ngọn lửa hỏa thiêu chỉ làm cháy đi phần xác để giúp con người rời bỏ kiếp sống thực tại chuyển sang kiếp khác ở dạng siêu hình. Do đó cái chết chỉ thoảng qua còn linh hồn vẫn tồn tại mãi mãi mà sự chuyển hóa đó chính là nhờ vào ngọn lửa.
Hết.
Tham Khảo Nghi Thức Của Dân Tộc Khác Về Tang Ma
Nghi Lễ Tang Ma Người Mường Bi - Hòa Bình
Nghi Lễ Tang Ma Của Người Thái Đen
Nghi Lễ Tang Ma Người Thổ Thanh Hóa
Nghi Lễ Tang Ma Tộc Người Nhóm Ngôn Ngữ Môn - Khmer
Nghi Lễ Tang Ma Của Người Ê Đê